Tin tức
on Sunday 18-05-2025 2:57am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Tùng Phương, CN. Đỗ Thị Nụ
Đơn Vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD Buôn ma thuột – Bệnh Viện Đại Học Y dược Buôn Ma Thuột.
Cơ sở lý luận
Khoảng 9% các cặp vợ chồng trên toàn thế giới gặp khó khăn trong việc thụ thai hoặc duy trì thai kỳ, tình trạng kéo dài không thể thụ thai này được gọi là giảm khả năng sinh sản và thường được xác định là tình trạng vô sinh trên lâm sàng khi cặp vợ chồng có mong muốn mang thai, đã quan hệ đều đặn, không dùng biện pháp tránh thai ít nhất 12 tháng nhưng không đạt được thai kỳ.
Giảm khả năng sinh sản có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau với nhiều nguyên nhân tiềm ẩn, bao gồm bất thường trong quá trình sản xuất noãn, tinh trùng, quá trình làm tổ hoặc các rối loạn khác ảnh hưởng một hoặc nhiều thành phần của hệ thống sinh sản. Các xét nghiệm chẩn đoán và việc theo dõi chu kỳ kinh nguyệt, có thể giúp xác định nguyên nhân, tình trạng giảm khả năng sinh sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, bác sĩ không thể xác định rõ nguyên nhân và khoảng 15-30% các cặp vợ chồng được chẩn đoán là vô sinh không rõ nguyên nhân.
Khoảng một nửa số cặp vợ chồng gặp tình trạng giảm khả năng sinh sản tìm đến điều trị y khoa. Các phương pháp phổ biến bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF), bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine Insemination - IUI) và kích thích rụng trứng (Ovulation Stimulation - OS). Điều trị vô sinh đã dần chuyển từ các phương pháp ít xâm lấn như IUI hoặc OS, sang phương pháp can thiệp sâu hơn, đặc biệt là phương pháp IVF. Một số nghiên cứu cũng cho rằng phương pháp IVF nên được coi là phương pháp điều trị chính cho các cặp vợ chồng, không có chỉ định cụ thể do tỷ lệ thành công cao trên mỗi chu kỳ. Tuy nhiên vẫn còn lo ngại đáng kể về việc mở rộng sử dụng phương pháp IVF, bao gồm chi phí cao và tác động đến kết cục của trẻ sơ sinh. Nghiên cứu dịch tễ đã ghi nhận, tỷ lệ sinh non (Preterm Birth - PTB), trẻ nhẹ cân (Low Birthweight - LBW), và dị tật bẩm sinh cao hơn ở những trẻ thụ thai bằng phương pháp IVF so với trẻ thụ thai tự nhiên.
Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn sâu hơn về mối liên hệ giữa các phương pháp điều trị vô sinh như OS, IUI và IVF và nguy cơ sinh non ở phụ nữ bị vô sinh nguyên phát, so với những phụ nữ vô sinh mang thai mà không cần đến điều trị hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp
Nghiên cứu trải nghiệm sinh sản (Fertility Experiences Study - FES) là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại Đại học Utah, trong khoảng thời gian từ tháng 4, năm 2010 đến tháng 9, năm 2012. Hai nhóm đoàn hệ song song đã được tuyển chọn.
Đối với nhóm đoàn hệ lâm sàng, người tham gia tuyển là từ các bệnh nhân nữ lần đầu đến khám vô sinh, hoặc điều trị tại hai phòng khám chuyên khoa hỗ trợ sinh sản tại Utah trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2009.
Đối với nhóm đoàn hệ dân số, được tuyển chọn từ cơ sở dữ liệu dân số Utah, để xác đinh và mời những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đã kết hôn và chưa từng sinh con, tiêu chí đủ điều kiện cuối cùng cho 2 nhóm đoàn hệ bao gồm: nữ giới từ 20 đến 35 tuổi, chưa từng mang thai, có ít nhất 1 năm quan hệ tình dục đều đặn, không sử dụng biện pháp tránh thai với bạn tình nam, cư trú tại Utah trong vòng 3 năm. Việc đưa vào nhóm dân số giúp bao gồm phụ nữ có giảm khả năng sinh sản nhưng chưa bao giờ tiếp cận với điều trị chuyên khoa hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp điều trị có mức xâm lấn tiếp theo là bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Những phụ nữ ở phân loại vào nhóm IUI, là nhóm phụ nữ sử dụng phương pháp IUI trong chu kỳ thụ thai, bất kể có sử dụng thuốc kích thích rụng trứng hay không. Nếu phụ nữ chỉ báo cáo sử dụng thuốc kích buồng trứng hoặc hỗ trợ rụng trứng, trong chu kỳ thụ thai thì được phân vào nhóm OS.
Những phụ nữ không sử dụng bất kỳ thuốc hoặc thủ thuật nào trong chu kỳ thụ thai, sẽ được phân loại không điều trị, ngay cả khi họ đã được điều trị y khoa trước đó, hoặc sử dụng biện pháp hỗ trợ không chính thống.
Kết cục chính của nghiên cứu là sinh non, được xác định dựa trên tuổi thai, ghi nhận trên giấy khai sinh. Các biến đồng biến được đưa vào phân tích dựa trên các yếu tố nguy cơ đối với điều trị vô sinh và sinh non. Các biến được xem xét trong phân tích bao gồm: tuổi của mẹ khi sinh, tuổi của cha, chủng tộc, trình độ học vấn của mẹ, chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai (Body Mass Index - BMI), thu nhập hằng năm, tôn giáo. Thông tin về tuổi cha mẹ và chỉ số BMI của mẹ được thu thập từ giấy khai sinh. Tuổi cha mẹ được phân loại thành dưới 30 tuổi hoặc 30 tuổi trở lên tại thời điểm sinh.
Kết quả
Trong số 490 phụ nữ bị giảm khả năng sinh sản, 41% báo cáo bị vô sinh chưa rõ nguyên nhân, 40% báo cáo vô sinh do yếu tố nam, 54% chẩn đoán bị rối loạn phóng noãn, 27% bị lạc nội mạc tử cung, 16% bị yếu tố về vòi trứng, 13% vô sinh do bất thường tử cung, 28% có nhiều yếu tố nữ kết hợp và 12% bị tắc hoặc tổn thương vòi trứng. Trong chu kỳ thụ thai dẫn đến mang thai, 44% không sử dụng bất kỳ phương pháp điều trị vô sinh nào, 16% sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, 13% thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung, 28% thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Trong số 13% phụ nữ thực hiện phương pháp IUI, có 99% sử dụng thuốc hỗ trợ rụng trứng.
Nguy cơ sinh non tăng dần theo mức độ xâm lấn của phương pháp điều trị, cả trong phân tích chưa hiệu chỉnh và đã hiệu chỉnh. Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố: tuổi mẹ, tuổi cha, trình độ học vấn, thu nhập hàng năm, tôn giáo, chẩn đoán vô sinh do nam hoặc nữ và thời gian giảm khả năng sinh sản. Theo nghiên cứu nguy cơ sinh non tăng lên so với nhóm không điều trị trong chu kỳ thụ thai, gấp 2,17 lần ở phụ nữ sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, gấp 3,17 lần ở phụ nữ sử dụng phương pháp IUI, gấp 4,24 lần ở phụ nữ sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Phụ nữ được chẩn đoán vô sinh do yếu tố nữ có nguy cơ sinh non tăng gấp 2,99 lần so với phụ nữ không yếu tố nữ liên quan đến vô sinh. Tỷ lệ đa thai theo nhóm, chỉ có 6,6% các trường hợp mang thai tự nhiên không điều trị là song thai, trong nhóm OS, 19% là song thai và 6% là tam thai, với nhóm thực hiện phương pháp IUI, 10,9% là song thai và 5% là tam thai, với nhóm thực hiện phương pháp IVF, 30% là song thai và 2% là tam thai. Đây là yếu tố liên quan lớn đến sinh non.
Thảo luận
Khi so sánh phụ nữ giảm khả năng sinh sản, nhưng không sử dụng bất kỳ phương pháp điều trị sinh sản nào trong chu kỳ thụ thai, thì phụ nữ sử dụng phương pháp điều trị sinh sản đều có khả năng sinh non cao hơn, một cách đáng kể.
Càng điều trị xâm lấn, tỷ lệ đa thai và tỷ lệ sinh non càng tăng, phụ nữ sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, có nguy cơ sinh non cao hơn so với nhóm phụ nữ không điều trị, phụ nữ sử dụng phương pháp IVF có nguy cơ sinh non cao gấp 4 lần. Mức độ xâm lấn của các phương pháp điều trị có thể gây tác động trực tiếp đến sinh non.
Mối liên hệ giữa điều trị và sinh non rất gần với tỷ lệ mang đa thai. Tuy nhiên đa thai là yếu tố trung gian trong chuỗi nguyên nhân giữa điều trị và kết cục sinh non, do đó nghiên cứu này nhất quán với nhiều nghiên cứu khác cho thấy yếu tố chính liên kết giữa sinh non và điều trị sinh sản là tình trạng mang đa thai.
Một điểm đáng lưu ý khác là nguy cơ sinh non trong toàn bộ nhóm phụ nữ giảm khả năng sinh sản, bao gồm cả nhóm đối chứng không điều trị, cao hơn rõ rệt so với tỷ lệ sinh non trong dân số chung. Điều này cho thấy cả căn nguyên bệnh lý nền lẫn can thiệp y khoa đều là yếu tố nguy cơ tiềm năng dẫn đến sinh non.
Sinh non là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng trên toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, hơn 11% trẻ sơ sinh sống được sinh ra khi tuổi thai dưới 37 tuần. Sinh non là nguyên nhân góp phần lớn vào tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Kết quả từ phân tích này củng cố giả thuyết rằng tất cả các phương pháp điều trị vô sinh bằng y học đều góp phần trực tiếp làm tăng tỷ lệ sinh non, chủ yếu thông qua việc tăng tỷ lệ đa thai.
Nguy cơ sinh non sau khi thụ thai bằng kích thích rụng trứng hoặc bơm tinh trùng vào buồng tử cung còn cao hơn cả nguy cơ sinh non do hút thuốc lá, tuy nhiên cả bác sĩ lẫn bệnh nhân có thể chưa thực sự chú ý đúng mức đến rủi ro này của các phương pháp điều trị.
Kết luận
Các kết quả nghiên cứu ủng hộ việc khuyến khích phụ nữ nên thử áp dụng đầy đủ các phương pháp điều trị vô sinh ít xâm lấn nhất có thể mang lại hiệu quả đối với họ, đồng thời điều chỉnh thực hành lâm sàng của tất cả các phương pháp hỗ trợ sinh sản nhằm giảm thiểu tỷ lệ mang đa thai. Các nghiên cứu trong tương lai nên xem xét các can thiệp có thể giúp ngăn ngừa sinh non ở nhóm phụ nữ giảm khả năng sinh sản có nguy cơ cao, bất kể họ sử dụng loại điều trị sinh sản nào.
Fertility treatments and the risk of preterm birth among women with subfertility: a linked-data retrospective cohort study.
Jessica N. Sanders, Sara E. Simonsen, Christina A. Porucznik, Ahmad O. Hammoud1, Ken R. Smith and Joseph B. Stanford.
Sanders et al. Reproductive Health, 2022
Đơn Vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD Buôn ma thuột – Bệnh Viện Đại Học Y dược Buôn Ma Thuột.
Cơ sở lý luận
Khoảng 9% các cặp vợ chồng trên toàn thế giới gặp khó khăn trong việc thụ thai hoặc duy trì thai kỳ, tình trạng kéo dài không thể thụ thai này được gọi là giảm khả năng sinh sản và thường được xác định là tình trạng vô sinh trên lâm sàng khi cặp vợ chồng có mong muốn mang thai, đã quan hệ đều đặn, không dùng biện pháp tránh thai ít nhất 12 tháng nhưng không đạt được thai kỳ.
Giảm khả năng sinh sản có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau với nhiều nguyên nhân tiềm ẩn, bao gồm bất thường trong quá trình sản xuất noãn, tinh trùng, quá trình làm tổ hoặc các rối loạn khác ảnh hưởng một hoặc nhiều thành phần của hệ thống sinh sản. Các xét nghiệm chẩn đoán và việc theo dõi chu kỳ kinh nguyệt, có thể giúp xác định nguyên nhân, tình trạng giảm khả năng sinh sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, bác sĩ không thể xác định rõ nguyên nhân và khoảng 15-30% các cặp vợ chồng được chẩn đoán là vô sinh không rõ nguyên nhân.
Khoảng một nửa số cặp vợ chồng gặp tình trạng giảm khả năng sinh sản tìm đến điều trị y khoa. Các phương pháp phổ biến bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF), bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine Insemination - IUI) và kích thích rụng trứng (Ovulation Stimulation - OS). Điều trị vô sinh đã dần chuyển từ các phương pháp ít xâm lấn như IUI hoặc OS, sang phương pháp can thiệp sâu hơn, đặc biệt là phương pháp IVF. Một số nghiên cứu cũng cho rằng phương pháp IVF nên được coi là phương pháp điều trị chính cho các cặp vợ chồng, không có chỉ định cụ thể do tỷ lệ thành công cao trên mỗi chu kỳ. Tuy nhiên vẫn còn lo ngại đáng kể về việc mở rộng sử dụng phương pháp IVF, bao gồm chi phí cao và tác động đến kết cục của trẻ sơ sinh. Nghiên cứu dịch tễ đã ghi nhận, tỷ lệ sinh non (Preterm Birth - PTB), trẻ nhẹ cân (Low Birthweight - LBW), và dị tật bẩm sinh cao hơn ở những trẻ thụ thai bằng phương pháp IVF so với trẻ thụ thai tự nhiên.
Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn sâu hơn về mối liên hệ giữa các phương pháp điều trị vô sinh như OS, IUI và IVF và nguy cơ sinh non ở phụ nữ bị vô sinh nguyên phát, so với những phụ nữ vô sinh mang thai mà không cần đến điều trị hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp
Nghiên cứu trải nghiệm sinh sản (Fertility Experiences Study - FES) là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại Đại học Utah, trong khoảng thời gian từ tháng 4, năm 2010 đến tháng 9, năm 2012. Hai nhóm đoàn hệ song song đã được tuyển chọn.
Đối với nhóm đoàn hệ lâm sàng, người tham gia tuyển là từ các bệnh nhân nữ lần đầu đến khám vô sinh, hoặc điều trị tại hai phòng khám chuyên khoa hỗ trợ sinh sản tại Utah trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2009.
Đối với nhóm đoàn hệ dân số, được tuyển chọn từ cơ sở dữ liệu dân số Utah, để xác đinh và mời những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đã kết hôn và chưa từng sinh con, tiêu chí đủ điều kiện cuối cùng cho 2 nhóm đoàn hệ bao gồm: nữ giới từ 20 đến 35 tuổi, chưa từng mang thai, có ít nhất 1 năm quan hệ tình dục đều đặn, không sử dụng biện pháp tránh thai với bạn tình nam, cư trú tại Utah trong vòng 3 năm. Việc đưa vào nhóm dân số giúp bao gồm phụ nữ có giảm khả năng sinh sản nhưng chưa bao giờ tiếp cận với điều trị chuyên khoa hỗ trợ sinh sản.
Phương pháp điều trị có mức xâm lấn tiếp theo là bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Những phụ nữ ở phân loại vào nhóm IUI, là nhóm phụ nữ sử dụng phương pháp IUI trong chu kỳ thụ thai, bất kể có sử dụng thuốc kích thích rụng trứng hay không. Nếu phụ nữ chỉ báo cáo sử dụng thuốc kích buồng trứng hoặc hỗ trợ rụng trứng, trong chu kỳ thụ thai thì được phân vào nhóm OS.
Những phụ nữ không sử dụng bất kỳ thuốc hoặc thủ thuật nào trong chu kỳ thụ thai, sẽ được phân loại không điều trị, ngay cả khi họ đã được điều trị y khoa trước đó, hoặc sử dụng biện pháp hỗ trợ không chính thống.
Kết cục chính của nghiên cứu là sinh non, được xác định dựa trên tuổi thai, ghi nhận trên giấy khai sinh. Các biến đồng biến được đưa vào phân tích dựa trên các yếu tố nguy cơ đối với điều trị vô sinh và sinh non. Các biến được xem xét trong phân tích bao gồm: tuổi của mẹ khi sinh, tuổi của cha, chủng tộc, trình độ học vấn của mẹ, chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai (Body Mass Index - BMI), thu nhập hằng năm, tôn giáo. Thông tin về tuổi cha mẹ và chỉ số BMI của mẹ được thu thập từ giấy khai sinh. Tuổi cha mẹ được phân loại thành dưới 30 tuổi hoặc 30 tuổi trở lên tại thời điểm sinh.
Kết quả
Trong số 490 phụ nữ bị giảm khả năng sinh sản, 41% báo cáo bị vô sinh chưa rõ nguyên nhân, 40% báo cáo vô sinh do yếu tố nam, 54% chẩn đoán bị rối loạn phóng noãn, 27% bị lạc nội mạc tử cung, 16% bị yếu tố về vòi trứng, 13% vô sinh do bất thường tử cung, 28% có nhiều yếu tố nữ kết hợp và 12% bị tắc hoặc tổn thương vòi trứng. Trong chu kỳ thụ thai dẫn đến mang thai, 44% không sử dụng bất kỳ phương pháp điều trị vô sinh nào, 16% sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, 13% thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung, 28% thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Trong số 13% phụ nữ thực hiện phương pháp IUI, có 99% sử dụng thuốc hỗ trợ rụng trứng.
Nguy cơ sinh non tăng dần theo mức độ xâm lấn của phương pháp điều trị, cả trong phân tích chưa hiệu chỉnh và đã hiệu chỉnh. Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố: tuổi mẹ, tuổi cha, trình độ học vấn, thu nhập hàng năm, tôn giáo, chẩn đoán vô sinh do nam hoặc nữ và thời gian giảm khả năng sinh sản. Theo nghiên cứu nguy cơ sinh non tăng lên so với nhóm không điều trị trong chu kỳ thụ thai, gấp 2,17 lần ở phụ nữ sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, gấp 3,17 lần ở phụ nữ sử dụng phương pháp IUI, gấp 4,24 lần ở phụ nữ sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Phụ nữ được chẩn đoán vô sinh do yếu tố nữ có nguy cơ sinh non tăng gấp 2,99 lần so với phụ nữ không yếu tố nữ liên quan đến vô sinh. Tỷ lệ đa thai theo nhóm, chỉ có 6,6% các trường hợp mang thai tự nhiên không điều trị là song thai, trong nhóm OS, 19% là song thai và 6% là tam thai, với nhóm thực hiện phương pháp IUI, 10,9% là song thai và 5% là tam thai, với nhóm thực hiện phương pháp IVF, 30% là song thai và 2% là tam thai. Đây là yếu tố liên quan lớn đến sinh non.
Thảo luận
Khi so sánh phụ nữ giảm khả năng sinh sản, nhưng không sử dụng bất kỳ phương pháp điều trị sinh sản nào trong chu kỳ thụ thai, thì phụ nữ sử dụng phương pháp điều trị sinh sản đều có khả năng sinh non cao hơn, một cách đáng kể.
Càng điều trị xâm lấn, tỷ lệ đa thai và tỷ lệ sinh non càng tăng, phụ nữ sử dụng thuốc kích thích rụng trứng, có nguy cơ sinh non cao hơn so với nhóm phụ nữ không điều trị, phụ nữ sử dụng phương pháp IVF có nguy cơ sinh non cao gấp 4 lần. Mức độ xâm lấn của các phương pháp điều trị có thể gây tác động trực tiếp đến sinh non.
Mối liên hệ giữa điều trị và sinh non rất gần với tỷ lệ mang đa thai. Tuy nhiên đa thai là yếu tố trung gian trong chuỗi nguyên nhân giữa điều trị và kết cục sinh non, do đó nghiên cứu này nhất quán với nhiều nghiên cứu khác cho thấy yếu tố chính liên kết giữa sinh non và điều trị sinh sản là tình trạng mang đa thai.
Một điểm đáng lưu ý khác là nguy cơ sinh non trong toàn bộ nhóm phụ nữ giảm khả năng sinh sản, bao gồm cả nhóm đối chứng không điều trị, cao hơn rõ rệt so với tỷ lệ sinh non trong dân số chung. Điều này cho thấy cả căn nguyên bệnh lý nền lẫn can thiệp y khoa đều là yếu tố nguy cơ tiềm năng dẫn đến sinh non.
Sinh non là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng trên toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, hơn 11% trẻ sơ sinh sống được sinh ra khi tuổi thai dưới 37 tuần. Sinh non là nguyên nhân góp phần lớn vào tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Kết quả từ phân tích này củng cố giả thuyết rằng tất cả các phương pháp điều trị vô sinh bằng y học đều góp phần trực tiếp làm tăng tỷ lệ sinh non, chủ yếu thông qua việc tăng tỷ lệ đa thai.
Nguy cơ sinh non sau khi thụ thai bằng kích thích rụng trứng hoặc bơm tinh trùng vào buồng tử cung còn cao hơn cả nguy cơ sinh non do hút thuốc lá, tuy nhiên cả bác sĩ lẫn bệnh nhân có thể chưa thực sự chú ý đúng mức đến rủi ro này của các phương pháp điều trị.
Kết luận
Các kết quả nghiên cứu ủng hộ việc khuyến khích phụ nữ nên thử áp dụng đầy đủ các phương pháp điều trị vô sinh ít xâm lấn nhất có thể mang lại hiệu quả đối với họ, đồng thời điều chỉnh thực hành lâm sàng của tất cả các phương pháp hỗ trợ sinh sản nhằm giảm thiểu tỷ lệ mang đa thai. Các nghiên cứu trong tương lai nên xem xét các can thiệp có thể giúp ngăn ngừa sinh non ở nhóm phụ nữ giảm khả năng sinh sản có nguy cơ cao, bất kể họ sử dụng loại điều trị sinh sản nào.
Fertility treatments and the risk of preterm birth among women with subfertility: a linked-data retrospective cohort study.
Jessica N. Sanders, Sara E. Simonsen, Christina A. Porucznik, Ahmad O. Hammoud1, Ken R. Smith and Joseph B. Stanford.
Sanders et al. Reproductive Health, 2022
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK